Lấy ý kiến dự thảo quyết định của UBND tỉnh về ủy quyền giải quyết chế độ trợ cấp mai táng phí cho đối tượng theo quy định tại QĐ số 62/2011/QĐ-TTg   |    Hà Tĩnh phát động Cuộc thi an toàn thông tin trên không gian mạng năm 2024   |    Hà Tĩnh bổ sung 89 giáo viên mầm non và phổ thông công lập   |    Pháo hoa rực sáng bầu trời Hà Tĩnh đón chào năm mới Giáp Thìn 2024   |    Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cường bảo đảm trật tự, ATGT   |   

Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Hà Tĩnh năm 2022

  

10:04 30/12/2022

      Năm 2022 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch 5 năm 2021-2025; là năm mà Hà Tĩnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 bùng phát mạnh sau Tết Nguyên đán; tác động xung đột dựa Nga - Ukraine làm giá xăng, dầu, nguyên vật liệu biến động thiếu ổn định; sản xuất ngành công nghiệp bị ảnh hưởng do cung thị trường thép tiêu thụ chậm đã kéo theo sự sụt giảm về sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ lực; lãi suất ngân hàng tăng cao trong những tháng cuối năm; trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động bởi dịch bệnh, thời tiết diễn biến khó lường... đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

       Mặc dù nền kinh tế của tỉnh nhà gặp khó khăn, song với sự tập trung cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân, Doanh nghiệp. Hà Tĩnh đã đạt được những kết khá tích cực; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

       I. LĨNH VỰC KINH TẾ

       1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)

       Về quy mô kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) của Hà Tĩnh trong năm 2022 ước đạt trên 92.960 tỷ đồng, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; GRDP bình quân đầu người ước đạt 70,47 triệu đồng/năm (tăng 3,77 triệu đồng/người/năm so với năm 2021), cao nhất khu vực Bắc Miền Trung và xếp thứ 9/14 các tỉnh Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung.

       Về tốc độ tăng trưởng: Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo nên nền tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập, tạo nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Ước năm 2022, Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,83%, đóng góp 0,11 điểm %; khu vực Công nghiệp, xây dựng giảm 3,23%, làm giảm 1,46 điểm %, (riêng ngành Công nghiệp giảm 8,66% làm giảm 3,29 điểm %); khu vực Dịch vụ tăng 11,73% đóng góp 3,74 điểm %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 17,97%, đóng góp 1,59 điểm % vào mức tăng trưởng chung.

       Trong 21 nhóm ngành kinh tế cấp I thì đã có 18 nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng dương, trong đó có những ngành có mức tăng trưởng khá cao như: Ngành xây dựng tăng 24,88%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 14,59%; ngành dịch vụ vận tải kho bãi tăng 14,36%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 61,07%..vv. Tuy nhiên vẫn có 4 nhóm ngành công nghiệp không có tăng trưởng và làm giảm 3,29 điểm % vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.

       Nhìn vào bức tranh kinh tế của Hà Tĩnh cho thấy, đây là năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025 mà Hà Tĩnh chúng ta có mức tăng trưởng không đạt kế hoạch đề ra.

       Về nguyên nhân chính dẫn đến nền kinh tế Hà Tĩnh có mức tăng trưởng thấp là do: (1) Sản xuất ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết cực đoan, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa thực sự gắn với phát triển kinh tế nông thôn. (2) Sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; tính từ tháng 7/2022, sản lượng sản xuất sản phẩm từ Công ty Formosa tiếp tục giảm. Cụ thể, ước năm 2022 sản lượng than cốc giảm 189 ngàn tấn, phôi thép giảm 650 ngàn tấn, thép giảm 910 ngàn tấn so với cùng kỳ năm 2021; bên cạnh sản lượng giảm điện sản xuất của Công ty Formosa (giảm 932 triệu KWh) thì tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại đã làm giảm 2171 triệu KWh. Và đây là 2 nguyên nhân chính dẫn đến Hà Tĩnh đạt tăng trưởng không như kỳ vọng.

       Nếu tính chung giai đoạn 5 năm trở lại đây từ 2018 đến 2022 Hà Tĩnh có nhiều biến động trong tăng trưởng kinh tế, trong giai đoạn này tăng trưởng của Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 và sự sụt giảm sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp trong năm 2022. Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2018-2022 tăng 8,03%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,29%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 13,27%/năm; khu vực dịch vụ tăng 4,77%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,31%/năm. Như vậy, việc ổn định hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp nói chung và của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn nói riêng đặc biệt của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa; Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước tạo tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế cho những năm tiếp theo và tạo tiền đề cho bước đột phá mới.

       Về cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông, LN, thủy sản. Cụ thể, ước năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,01%, giảm 0,58 điểm % so với năm 2021; khu vực công nghiêp - xây dựng chiếm 40,24% giảm 3,11 điểm %; khu vực dịch vụ chiếm 34,87%, tăng 2,55 điểm %; khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,88% tăng 1,14 điểm %.

       2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

       Năm 2022, mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả sản xuất vẫn đảm bảo kế hoạch đề ra về cơ cấu giống và thời vụ sản xuất. Sản lượng các cây trồng chủ lực của địa phương vẫn có mức tăng khá như cam, bưởi, ngô, khoai, sắn, rau các loại...Bên cạnh đó, các mô hình tích tụ, tập trung ruộng đất, cánh đồng lớn, chuỗi lên kết sản xuất tiếp tục được phát triển qua đó thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới, cơ giới hóa sản xuất; Chăn nuôi được phát triển theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường và kiểm soát dịch bệnh, hoạt động chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể do giá cả thất thường trong khi giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao; Hoạt động trồng, chăm sóc, khoanh nuôi rừng đạt kết quả ổn định và tăng nhẹ so với năm trước, công tác phòng cháy chữa cháy rừng, quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm, tăng cường chỉ đạo; Sản xuất thủy sản duy trì mức tăng trưởng nhẹ so với năm trước.

       1.1. Sản xuất nông nghiệp

        a) Trồng trọt

       Cây hàng năm: Kết quả sản xuất năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh sơ bộ tăng 0,17% (tăng 276 ha) so với năm 2021. Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm sơ bộ giảm 2,54% (giảm 16.062 tấn) so với thực hiện năm trước. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:

       Cây lúa: Diện tích gieo trồng lúa cả năm sơ bộ giảm 169 ha so với năm 2021. Trong đó: Diện tích lúa vụ Đông Xuân đạt 59.813 ha, bằng 100,56% (tăng 335 ha); vụ Hè Thu đạt 44.526 ha, bằng 99,05% (giảm 429 ha) và vụ Mùa đạt 415 ha, bằng 84,64% (giảm 75 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu diện tích lúa Hè Thu năm nay giảm là do sản xuất vụ Đông Xuân kết thúc chậm hơn so với kế hoạch đề ra gây ảnh hưởng đến việc gieo cấy lúa. Ngoài ra, năm nay được đánh giá là năm thời tiết thất thường mưa nhiều nắng ít nên đã gặp khó khăn trong việc gieo cấy.

       Năng suất gieo trồng lúa cả năm 2022 sơ bộ giảm 2,03 tạ/ha so với năm trước, trong đó: Năng suất gieo trồng lúa vụ Đông Xuân đạt 55,87 tạ/ha, bằng 94,77% (giảm 3,08 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 50,32 tạ/ha, bằng 98,44% (giảm 0,8 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 16,44 tạ/ha, bằng 86,96% (giảm 2,47 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước do gặp điều kiện thời tiết bất thường ở một số giai đoạn sinh trưởng phát triển.

       Tổng sản lượng lúa năm 2022 sơ bộ giảm 22.213 tấn so với năm 2021. Trong đó: Sản lượng lúa Đông Xuân đạt 333.566 tấn, bằng 95,36% (giảm 16.227 tấn); vụ Hè Thu đạt 224.062 tấn, bằng 97,5% (giảm 5.742 tấn) và sản lượng lúa vụ Mùa đạt 682 tấn, bằng 73,6% (giảm 244 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Do vụ Hè Thu, vụ Mùa giảm diện tích và cả ba vụ sản xuất giảm năng suất nên sản lượng lúa năm 2022 giảm so với năm 2021.

       Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2022 sơ bộ tăng 767 ha so với năm trước. Trong đó diện tích gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 10.712 ha, bằng 105,22% (tăng 532 ha) và diện tích vụ Hè Thu đạt 2.239 ha, bằng 111,71% (tăng 235 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích ngô tăng là do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng cao nên người dân tận dụng tối đa diện tích trồng ngô để phục vụ mục đích chăn nuôi. Năng suất ngô cả năm sơ bộ tăng 2,19 tạ/ha so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 46,41 tạ/ha, bằng 103,6% (tăng 1,61 tạ/ha) và vụ Hè Thu đạt 41,39 tạ/ha, bằng 114,84% (tăng 5,35 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Do cả diện tích và năng suất tăng nên sản lượng ngô cả năm tăng 6.151 tấn so với năm 2021.

       Cây khoai lang: Diện tích trồng khoai lang năm 2022 sơ bộ tăng 191 ha so với năm trước. Trong đó: Diện tích gieo trồng khoai lang vụ Đông Xuân đạt 3.120 ha, bằng 105,97% (tăng 176 ha); vụ Hè Thu đạt 595 ha, bằng 106,98% (tăng 39 ha) và vụ Mùa đạt 46 ha, bằng 66% (giảm 24 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích tăng do một số huyện người dân được hỗ trợ giống cây khoai lang nên chuyển từ các loại cây khác sang trồng cây khoai lang. Năng suất khoai lang cả năm sơ bộ giảm 0,04 tạ/ha so với năm 2021. Trong đó: Năng suất vụ Đông Xuân đạt 75,52 tạ/ha, bằng 99,53% (giảm 0,35 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 59,86 tạ/ha, bằng 100,39% (tăng 0,23 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 40,29 tạ/ha, bằng 95,93% (giảm 1,71 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khoai lang cả năm sơ bộ tăng 1.370 tấn so với năm 2021. Do diện tích tăng trong khi năng suất vẫn giữ ổn định nên sản lượng khoai lang tăng.

       Cây sắn: Diện tích gieo trồng sắn năm 2022 sơ bộ đạt 2.625 ha, bằng 107,15% (tăng 175 ha) so với năm trước. Năng suất sơ bộ đạt 152,45 tạ/ha, bằng 100,86% (tăng 1,31 tạ/ha), với sản lượng sơ bộ đạt 40.025 tấn, bằng 108,08% (tăng 2.992 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân tăng do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng nên bà con nông dân trồng sắn làm thức ăn chăn nuôi để giảm bớt chi phí.

       Cây lạc: Năm 2022, diện tích gieo trồng lạc sơ bộ giảm 1.182 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng đạt 8.826 ha, bằng 88,07% (giảm 1.196 ha) và vụ Hè Thu đạt 368 ha, bằng 103,75% (tăng 14 ha) so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích lạc giảm là do một số xã chủ động được nước tưới nên chuyển diện tích trồng lạc sang trồng lúa hoặc trồng rau cho kinh tế cao hơn. Ngoài ra, do chi phí đầu vào tăng cao (giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) nên người nông dân không mặn mà trong sản xuất lạc mà chuyển sang cây trồng khác. Năng suất lạc cả năm sơ bộ giảm 3,85 tạ/ha so với năm trước. Do giảm cả diện tích và năng suất nên sản lượng lạc cả năm ước tính giảm 6.861 tấn so với năm trước.

      Cây rau các loại: Năm 2022, diện tích gieo trồng rau sơ bộ tăng 483 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng rau các loại đạt 11.098 ha, bằng 103,19% (tăng 344 ha); vụ Hè Thu diện tích gieo trồng đạt 2.866 ha, bằng 105,79% (tăng 157 ha) so với cùng kỳ năm trước và diện tích rau vụ Mùa đạt 194 ha, bằng 91,94% (giảm 18 ha). Năng suất rau cả năm sơ bộ tăng 0,67 tạ/ha với sản lượng rau cả năm sơ bộ tăng 4.325 tấn so với năm trước. Năm nay do lượng mưa nhiều, ít nắng hạn nên thuận lợi cho việc sản xuất các loại rau.

       Cây lâu năm:

       Về diện tích: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có sơ bộ đạt 31.825 ha, bằng 101,03% (tăng 326 ha) so với năm 2021, trong đó:

      Tổng diện tích cây ăn quả sơ bộ đạt 19.587 ha, bằng 102,54% (tăng 486 ha) so với năm 2021, chiếm 61,55% tổng diện tích cây lâu năm. Trong đó diện tích các loại cây ăn quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 13.456 ha, bằng 103,94% (tăng 510 ha) so với năm 2021, chiếm 68,70% tổng diện tích cây ăn quả. Diện tích cây cam sơ bộ đạt 7.616 ha, tăng 140 ha, trong đó diện tích cam cho sản phẩm 6.494 ha, tăng 432 ha; diện tích bưởi sơ bộ đạt 4.410 ha, tăng 461 ha, diện tích bưởi cho sản phẩm 2.996 ha, tăng 137 ha...Cây có múi vẫn đang là một trong những sản phẩm cây ăn quả hàng hóa chủ lực của Hà Tĩnh và đang được các địa phương quan tâm đầu tư sản xuất.

       Diện tích cây cao su sơ bộ đạt 8.460 ha, bằng 99,63% (giảm 31 ha) so với năm 2021, trong đó diện tích cho sản phẩm tăng 422 ha. Trong năm 2022, thanh lý 4 ha cao su với sản lượng 100 m3, giá trị 53 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn không trồng mới cây cao su.

       Diện tích chè búp sơ bộ đạt 1.266 ha, bằng 102,01% (tăng 25 ha) và diện tích chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 1.763 ha, bằng 93,18% (giảm 129 ha) so với năm 2021. Nguyên nhân giảm là do diện tích đất trồng bị thu hồi để phụ vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đường giao thông...Một số diện tích tại vườn nhà không hiệu quả, cây trồng lâu năm già cỗi, người dân phá bỏ trồng các loại cây khác.

       Về sản lượng: Do không ngừng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cùng với điều kiện thời tiết năm nay không xẩy ra hạn hán, ít sâu bệnh và diện tích được mở rộng nên sản lượng các loại cây ăn quả tăng hơn so với năm 2021.

       Sản lượng cây ăn quả năm 2022 sơ bộ đạt 166.340 tấn, bằng 102,29% (tăng 3.727 tấn) so với năm 2021. Trong đó sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 115.763 tấn, bằng 103,20% (tăng 3.588 tấn) so với năm 2021: Sản lượng bưởi tăng 2.451 tấn; sản lượng cam tăng 1.436 tấn...Thời điểm này, bưởi đang tập trung thu hoạch chính vụ. Vụ cam năm nay do thời điểm khi cây ra hoa, kết trái gặp phải thời tiết mưa lạnh thất thường nên năng suất giảm hơn năm trước.

       Sản lượng cao su sơ bộ đạt 4.091 tấn, bằng 111,50% (tăng 422 tấn). Cây đến kỳ khai thác cho mủ khá tốt, chất lượng mủ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.

       Sản lượng chè búp sơ bộ đạt 10.652 tấn, bằng 108,16% (tăng 804 tấn) và sản lượng chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 19.668 tấn, bằng 98,61% (giảm 277 tấn) so với năm 2021. Chè chủ yếu tập trung ở các địa phương Hương Sơn, Hương Khê, huyện Kỳ Anh, Can Lộc, Thạch Hà...

       Tình hình sâu bệnh, thiệt hại:

       Vụ Đông Xuân 2021 – 2022:

       Trên cây lúa: Ốc bươu vàng phát sinh gây hại giai đoạn mạ, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích nhiễm 75 ha, gây hại chủ yếu vùng sâu trũng tại Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,…; bệnh đạo ôn lá gây hại hầu hết tại các địa phương với tỷ lệ bệnh trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 356 ha, trong đó nhiễm nặng 36,2 ha ; bệnh đạo ôn cổ bông phát sinh gây hại ở hầu hết các địa phương, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 400 ha, trong đó 30,2 ha nhiễm nặng; bệnh khô vằn phát sinh gây hại trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón thừa đạm, tỷ lệ trung bình 3-7%, diện tích nhiễm 1.978 ha, trong đó 5 ha nhiễm nặng, phân bố trên toàn tỉnh; bệnh bạc lá, tỷ lệ trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 200 ha, phân bố tại Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương khê, Lộc Hà; rầy nâu, rầy lưng trắng xuất hiện cục bộ dạng ổ ở Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh mật độ 700-1500con/m2, diện tích 2,7 ha; chuột phát sinh gây hại trên toàn tỉnh, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 280 ha.

       Trên cây lạc: Bệnh héo rũ gốc mốc đen, mốc trắng phát sinh gây hại tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 35 ha, nhiễm nặng 1,3 ha phân bố tại Lộc Hà, Thạch Hà, Hương Khê, Vũ Quang,...

       Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô 3-7 lá, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích 5,3 ha, phân bố tại Vũ Quang, Hương Khê..; bệnh khô vằn diện tích nhiễm 22,5 ha tập trung ở Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn,...

       Trên cây ăn quả có múi: Sâu vẽ bùa, sâu nhớt gây hại trên lộc xuân, diện tích nhiễm 68 ha; sâu xanh bướm phượng mật độ 1-3 con/cành, diện tích nhiễm 15 ha, sâu đục thân, đục cành 5 ha; bệnh loét sẹo, diện tích nhiễm 7 ha, phân bố tại Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Can Lộc,…

       Vụ Hè thu năm 2022:

       Trên cây lúa: Rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại chủ yếu trên diện tích sâu trũng, gieo cấy dày, mật độ trung bình 300-500 con/m2, diện tích nhiễm 12 ha, phân bố chủ yếu ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn,…; bệnh khô vằn gây hại chủ yếu trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón phân không cân đối, thừa đạm, diện tích nhiễm 1.301 ha, trong đó 41 ha nhiễm nặng phân bố hầu hết các địa phương trong tỉnh; bệnh bạc lá với diện tích nhiễm 3 ha, phân bố tại Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Cẩm Xuyên, Lộc Hà,..; chuột phát sinh gây hại với tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 232 ha, phân bố hầu hết các địa phương.

       Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô sớm, diện tích nhiễm 5 ha, bệnh đốm lá 15 ha, sâu đục thân, đục bắp 7 ha, tập trung tại Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Cẩm Xuyên…

       Trên cây ăn quả có múi: Nhện nhỏ, diện tích nhiễm 23 ha; rệp muội, diện tích nhiễm 18 ha; ruồi đục quả , diện tích nhiễm 21 ha, bệnh nứt thân xì mủ phát sinh gây hại chủ yếu trên vườn cây lâu năm, thoát nước kém, diện tích nhiễm 13 ha, phân bố tại Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc,…

       b. Chăn nuôi

       Năm 2022, kết quả chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể. Dịch bệnh tuy không gây thiệt hại lớn như những năm trước nhưng vẫn còn xuất hiện gây hại đối với đàn vật nuôi. Hậu quả mần bệnh của dịch tả lợn Châu Phi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, gây tâm lý e ngại trong việc tái đàn của người dân. Cùng với đó, trong thời gian qua chi phí chăn nuôi tăng cao trong khi giá bán thấp và thiếu ổn định, đặc biệt là giá trâu, bò hơi giảm; các tổ chức tín dụng thắt chặt cho vay nên nguồn vốn đầu tư cho chăn nuôi gặp khó khăn, nhất là đối với các cơ sở chăn nuôi đang còn dư nợ các tổ chức tín dụng. Đây chính là những rào cản đối với sự phát triển chăn nuôi trên địa bàn thời gian qua và tiếp tục sẽ vẫn là những khó khăn trong thời gian tới.

       Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, một số dịch bệnh xuất hiện trên đàn vật nuôi, cụ thể như sau: Dịch tả lợn Châu Phi xẩy ra tại 41 xã thuộc 9 huyện, thành phố, thị xã (Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, Thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, Thành phố Hà Tĩnh), tổng số lợn mắc bệnh, buộc phải tiêu hủy 946 con, khối lượng hơn 51 tấn. Dịch lở mồm long móng xẩy ra tại 9 xã, thị trấn thuộc 5 huyện (huyện Kỳ Anh; Hương Khê; Thạch Hà; Cẩm Xuyên; Nghi Xuân) với số lượng 40 con trâu, 136 con bò và 1 con lợn mắc bệnh và đã được điều trị khỏi bệnh. Dịch bệnh viêm da, nổi cục xẩy ra tại xã Quang Thọ, huyện Vũ Quang và 4 xã (Ích Hậu; Phù Lưu; Hồng Lộc; Thạch Châu) thuộc huyện Thạch Hà làm 8 con trâu và 3 con bò mắc bệnh, trong đó có 2 con bò bị chết tiêu hủy với trọng lượng 108 kg. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục đã được khống chế và qua 21 ngày. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ và xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tổng số gia cầm bị ốm, chết và buộc tiêu hủy 4.913 con. Thời gian tới, để phát triển chăn nuôi bên cạnh các chính sách nhằm phát triển đàn thì công tác phòng, chống dịch bệnh phải tiếp tục được quan tâm thực hiện để đảm bảo an toàn cho đàn vật nuôi phát triển.

       1.2 Sản xuất Lâm nghiệp

       Hoạt động trồng và khai thác rừng năm 2022 vẫn được các cấp chính quyền cũng như người dân quan tâm thực hiện và đạt kết quả khá hơn so với năm 2021. Kết quả trồng rừng tập trung năm 2022 tăng 101 ha so với năm 2021. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: Huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác năm 2022 ước tính tăng 27.066 m3 so với năm 2021.

       Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xẩy ra 1 vụ cháy rừng (giảm 2 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 0,4 ha (giảm 0,83 ha) và 106 vụ phá rừng (giảm 6 vụ), với diện tích rừng bị phá là 49,483 ha (giảm 0,411 ha) so với năm trước.

       1.3 Thủy sản

       Năm 2022, sản xuất thủy sản trên địa bàn Hà Tĩnh nhìn chung ổn định và có sự tăng nhẹ (tăng 1,56% tương đương tăng 846 tấn) so với năm 2021. Sản lượng khai thác chiếm 70,5% tổng sản lượng thủy hải sản, tăng 343 tấn và sản lượng nuôi trồng năm 2022 ước tính tăng 503 tấn so với năm 2021. Mặc dù giá bán sản phẩm tương đối ổn định nhưng giá nhiên liệu và các chi phí khác trong thời gian qua tăng quá cao nên ngư dân gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt thấp. Cùng với đó là điều kiện, phương tiện, tiềm lực khai thác biển đầu tư phát triển chậm nên khó để tạo ra bước đột phá trong khai thác hải sản.

       Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 15/12/2022, đối với tôm nuôi bệnh đốm trắng với diện tích nhiễm bệnh là 87,3 ha và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với diện tích nhiễm bệnh là 9,23 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, tiến hành dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan và gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm.

       3. Sản xuất công nghiệp

       Năm 2022, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, các sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất công nghiệp như điện sản xuất, thép giảm đã “kéo” giảm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh xuống còn 16,53% so với cùng kỳ năm 2021 và đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế tỉnh nhà.

       Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)

       Ước tính tháng 12/2022, chỉ số sản xuất toàn ngành giảm 1,41% so với tháng trước và giảm 15,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước tăng 5,56% so với tháng trước và giảm 6,5% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước giảm 1,33% so với tháng trước và giảm 15,88% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính giảm 2,9% so với tháng trước và giảm 10,8% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xả lý rác thải dự ước tăng 3,03% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 23,46%.

       Tính chung cả năm 2022, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính giảm 16,53% so với năm 2021. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 4,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,11%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,37%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 17,45% so với cùng kỳ năm 2021.

       Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 9 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn cả năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 5 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 190,15%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 65,72%; sản xuất đồ uống tăng 20,17%; sản xuất thuốc, hóa dược và dượ liệu tăng 18,22%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 10,63%.

       Bên cạnh những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thì vẫn còn có 9 nhóm ngành giảm, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 29,37%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 19,33%; sản xuất kim loại giảm 16,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 11,11%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 9,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 7,79%; khai khoáng khác giảm 5,3%; dệt giảm 1,49%; khai thác quặng kim loại giảm 1,02%.

       Chỉ số tiêu thụ: Tính chung 12 tháng, chỉ số tiêu thụ giảm 19,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm sâu như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 64,16%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 25,13%; sản xuất kim loại giảm 21,05%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,88%. Như vậy trong năm 2022 nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn hiện nay.

       Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2022 tăng 26,01% so với tháng trước và tăng 65,51% cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 102,31%; sản xuất đồ uống tăng 82,21%; dệt tăng 55,25% … Với kết quả này cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của một số doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho của sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh (tăng 136,4% so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được, mà do doanh nghiệp giữ lại nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động của mình.

       4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

       4.1 Tình hình đăng ký kinh doanh

       Năm 2022 vừa qua, Hà Tĩnh đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Ước đến ngày 20/12/2022, toàn tỉnh thành lập mới 1.380 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký gần 10.000 tỷ đồng (tăng 27,07% về số lượng và giảm 24,61% về số vốn đăng ký). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,2 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2021 là 12,21 tỷ đồng); đã hỗ trợ đào tạo trên 1.000 lượt người về quản trị doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp; có trên 400 doanh nghiệp tái gia nhập thị trường, tăng hơn 18% so với năm trước; 100% doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức đã áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ.

       Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong năm vừa qua, do nhiều yếu tố tác động khác nhau đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể toàn tỉnh có 475 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (tăng 12,29% so với cùng kỳ năm 2021), 192 doanh nghiệp giải thể (tăng 34,26% so với cùng kỳ năm 2021). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trong năm qua là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.

       4.2 Thu hút đầu tư

       Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, là điểm sáng của cả nước trong việc thu hút đầu tư. Cụ thể, trong năm vừa qua, Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 18 dự án, trong đó 16 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn gần 5.000 tỷ đồng, 02 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn hơn 278 triệu USD. Đã kết nối, xúc tiến dự án với các nhà đầu tư lớn đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, đô thị, du lịch, dịch vụ, phát triển nông nghiệp hữu cơ; tiếp tục đầu tư, phát triển Khu kinh tế Vũng Áng theo Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tính đến thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra. Ngoài Nhiệt điện Vũng Áng II, các dự án lớn khác trong quá trình xây dựng như: Nhà máy Sản xuất Pin VinES (TX Kỳ Anh) dự kiến chạy thử trong quý I/2023; nhà máy bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh đã đi vào sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp Cổng Khánh 2, khu đô thị TNR tại Thị xã Hồng Lĩnh, huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Thị xã Kỳ Anh... cũng đang được các nhà thầu tập trung thực hiện.

       4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

       Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh năm tiếp theo có xu hướng tăng lên so với năm hiện tại chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy tình hình sản xuất ngành công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực và thuận lợi hơn trước. Cụ thể:

       Doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (53,49% doanh nghiệp); doanh nghiệp dự báo xu hướng giữ nguyên là 25,58% và 20,93% doanh nghiệp cho rằng năm tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.

       Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (53,49%); doanh nghiệp dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 20,93%.

       Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (50%). Điều này cho thấy số lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu thụ trong và xuất khẩu ra nước ngoài vẫn tiếp tục giữ ổn định trong năm 2023.

       Với những điểm mới trong năm 2023, tỷ lệ số các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động năm tiếp theo sẽ vẫn giữ nguyên chiếm 65,12%; tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 20,93%.

       Trong năm tiếp theo, Hà Tĩnh đang kỳ vọng sự tăng trưởng từ những dự án mới như: Nhà máy Bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh vừa đi vào vận hành; Nhà máy sản xuất Pin VinES dự kiến hoạt động vào cuối quý I/2023. Các dự án sắp sửa hoạt động trong thời gian tới đây sẽ góp phần làm đa dạng sản phẩm, gia tăng GTSX để ngành công nghiệp tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.

       5. Thương mại, dịch vụ

       5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:

       Năm 2022 ghi nhận sự phục hồi và tăng trưởng tích cực từ nhóm ngành thương mại, dịch vụ, mặc dù còn có những khó khăn do biến động khó lường về tình hình giá cả nhất là nhóm nhiên liệu xăng, dầu, khí đốt theo tình hình chung của Thế giới, cũng như ảnh hưởng của thời tiết đến cung các loại hàng hóa nông nghiệp. Tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán dự báo sẽ là tháng sôi động của thị trường bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các loại hình dịch vụ.

       Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Năm 2022 đạt 52.885,7 tỷ đồng, tăng 26,09% so với năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa đều có doanh thu tăng so với năm 2021, trong đó, doanh thu tăng mạnh ở các nhóm hàng như: đá quý, kim loại quý tăng 56,15%; xăng, dầu các loại tăng 47,97%; hàng may mặc tăng 45,62%; hàng hóa khác tăng 39,32%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,15%; nhiên liệu khác tăng 26,45%; riêng nhóm ngành lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất ước đạt 22.991,79 tỷ đồng và có mức tăng cao 24,01%. Nguyên nhân doanh thu bán lẻ tăng cao trước hết do thu nhập người dân trong năm đã có bước khởi sắc so với năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid 19 nên nhu cầu mua sắm tăng cao, nhất là những tháng cuối năm chuẩn bị Tết Nguyên đán. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của sự tăng lên của giá cả, các nhóm hàng xăng dầu, nhiên liệu, sắt, thép, kim loại quý, đồ dùng công nghệ cao giá ở mức cao do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tác động của yếu tố mùa vụ khi thời tiết chuyển biến thất thường, nắng nóng kéo dài đến những tháng cuối năm mới chuyển rét lại rét đậm ảnh hưởng năng suất các loại cây trồng, vật nuôi, buộc người dân phải nhập hàng từ vùng khác.

       Nhìn chung, kinh tế Hà Tĩnh và tình hình hoạt động thương mại của tỉnh trong cả năm chịu nhiều tác động bởi tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Những lo ngại về lạm phát, suy giảm kinh tế tác động đến cung cầu, giá cả nhiều nhóm hàng hóa trong nước. Tỷ giá ngoại tệ tăng, các nền kinh tế lớn điều chỉnh lãi suất và những bất ổn chính trị trên thế giới dẫn tới chuỗi cung ứng toàn cầu mất ổn định.

       Trong bối cảnh đó, thị trường bán lẻ hàng hoá trong tỉnh vẫn rất sôi động. Cơ cấu doanh thu cũng có sự chuyển dịch từ chợ truyền thống sang các cửa hàng kinh doanh trên đường phố, ngõ xóm; chuyển từ các công ty, cơ sở cá thể trong tỉnh sang các tập đoàn, chuỗi bán lẻ trong nước. Đặc biệt thị phần bán lẻ của một số ngành nghề như bán lẻ điện thoại, đồ điện tử, điện lạnh, gia dụng trên địa bàn tỉnh của các doanh nghiệp ngoài tỉnh chiếm thị phần lớn. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hoá lưu thông trong các cơ sở, doanh nghiệp bán hàng trực tuyến ngày càng tăng. Những yếu tố này đã tạo ra một thị trường kinh doanh đa dạng, có sức cạnh tranh cao, chất lượng hàng hoá ngày càng đi lên. Công tác kiểm tra, giám sát, chống gian lận thương mại, hàng giả, kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhân dân và doanh nghiệp.

       Dịch vụ l­ưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành năm 2022 dự tính đạt 6.073,1 tỷ đồng, tăng 74,01% so với năm 2021. Trong đó: Dịch vụ lưu trú đạt 245,63 tỷ đồng, tăng 123,28%; lượt khách phục vụ 1.352.209 lượt khách, tăng 95%; ngày khách 1.081.562 ngày khách, tăng 76,52% so với năm trước; Dịch vụ ăn uống dự tính 5.811,25 tỷ đồng, tăng 72,3% so với năm trước; Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch dự tính đạt 16,22 tỷ đồng, tăng 120,51%. Lượt khách theo tour 7.366 lượt khách tăng 40,12%, ngày khách du lịch theo tour 24.499 ngày khách tăng 75,43% so với năm trước.

       Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh đang phục hồi tích cực sau năm 2021 bị hạn chế hoạt động. Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nguyên nhân tăng của nhóm ngành này có thế kể đến do: Thứ nhất thể hiện đời sống người dân đã được nâng lên rõ rệt so với năm 2021; thứ hai, do yếu tố tâm lý sau 1 năm bị kìm chế đến năm 2022 mọi hoạt động đã được tổ chức có quy mô và đầu tư hơn nhất là trong các dịp lễ, ngày nghỉ...; thứ ba, do yếu tố giá cả thực phẩm tăng, và ảnh hương tăng từ nhóm hàng ga, nhiên liệu kéo theo các chi phí khác tăng. Bên cạnh đó, không thể không kể sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại cũng như việc chính quyền và các doanh nghiệp đã đầu tư hơn cho chất lượng và hạ tầng các dịch vụ phục vụ lưu trú, ăn uống, các điểm du lịch Hà Tĩnh, đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, thu hút lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng. Ngoài số lượng khách nội tỉnh, khách du lịch ngoại tỉnh đến với Hà Tĩnh bắt đầu tăng lại khả quan hơn thời điểm trước dịch.

       Dịch vụ khác năm 2022 ước tính đạt 2.578,04 tỷ đồng, tăng 73,78% so với năm trước. Hầu hết các nhóm ngành dịch vụ khác đều tăng mạnh so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 79,43%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 63,86%; giáo dục đào tạo tăng 131,35%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 56,21%; dịch vụ tăng 109,06%. Chỉ có duy nhất nhóm y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 3,03% do năm 2021 hoạt động y tế đạt doanh thu ở dịch vụ hỗ trợ Covid, bước sang năm 2022 việc dịch bệnh đã được kiểm soát và người dân đã nâng cao nhận thức về tự phòng chống dịch vì vậy nhóm doanh thu này giảm so với năm 2021.

       Nhìn chung, việc tăng doanh thu ở nhóm dịch vụ khác chủ yếu ở các nguyên nhân cụ thể sau: Thứ nhất, nhờ tác động của các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương được thực hiện hiệu quả và cũng có những giải pháp kịp thời khắc phục những khó khăn đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, tạo thuận lợi cho hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển. Thứ hai, Hà Tĩnh chủ yếu phát triển dịch vụ nên việc các ngành dịch vụ đã hoạt động mạnh trở lại nên thu nhập người dân đảm bảo hơn, nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ y tế, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ làm đẹp tăng. Thứ ba, thời tiết nắng nóng kéo dài khá lâu, mùa mưa lạnh đến chậm hơn nên tạo điều kiện cho người dân triển khai các công trình xây dựng cá nhân, các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Dự ước những năm tới hoạt động dịch vụ khác sẽ tăng trưởng khả quan theo đà tăng trưởng của năm 2022.

       5.2. Hoạt động vận tải

       Cũng như các ngành dịch vụ, năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của hoạt động vận tải. Việc tăng giá nhiên liệu đẩy phí vận tải tăng lên tuy nhiên không ảnh hưởng đến sức tiêu dùng hoạt động của người dân và các tổ chức kinh tế, ngược lại việc giá phục vụ cao cộng với sự can thiệp của các cơ quan chức năng đã nâng cao ý thức của các lái xe tuân thủ về tải trọng cũng như lượng hành khách phục vụ đảm bảo an toàn giao thông, vận tải. Trong năm chỉ có hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm do việc xuất khẩu hàng hóa gặp khó khăn số lượng hàng hóa thông qua cảng giảm.

       Doanh thu vận tải, kho bãi năm 2022 ước đạt 5.446,13 tỷ đồng, tăng 25,45% so với năm 2021. Trong đó:

       Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 1.195,81 tỷ đồng, tăng 42,38% so với năm trước. Số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 15.424,46 nghìn HK, tăng 39,44% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 2.644,88 triệu HK.km, tăng 42,15% so với năm trước. Việc chú trọng đầu tư của các đơn vị kinh doanh lữ hành, lưu trú, nhà hàng là những yếu tố quan trọng đóng vai trò “kích cầu” tăng nhu cầu du lịch, đi chơi vào các dịp nghỉ lễ, cũng như nhu cầu đi lại hàng ngày đi học và làm việc nội và ngoại tỉnh cộng với việc tăng giá vé phục vụ đã khiến doanh thu vận tải hành khách đạt mức tăng kỷ lục, tuy nhiên việc tỉ trọng doanh thu của vận tải hành khách thấp hơn nhiều so với vận tải hàng hóa nên kết quả tăng chung của ngành vận tải vẫn chỉ đạt trên 25%.

       Vận tải hàng hóa ước đạt 3.401,34 tỷ đồng, tăng 29,54% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 38.193,31 nghìn tấn, tăng 30,12% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 971,99 triệu tấn.km, tăng 27,89% so với cùng kỳ năm trước. Do thời tiết thuận lợi cho các công trình xây dựng, san lấp mặt bằng thực hiện thi công nên nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải hàng hóa tăng. Nhu cầu xây dựng, sửa sang nhà cửa trong nhân dân tăng cùng với việc đẩy mạnh công tác chỉnh trang đô thị, nhiều dự án đang được triển khai đầu tư nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng.

       Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 848,05 tỷ đồng, giảm 3,16% so với năm trước. Nguyên nhân do khối lượng hàng hóa thông qua cảng giảm cũng như nhu cầu đăng kiểm giảm hơn. Mặc dù các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi nên nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa năm 2022 tăng khá cao so với năm 2021. Tuy nhiên, do chi phí xăng, dầu, lãi suất ngân hàng...tăng cao nên các đơn vị hoạt động vận tải trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

       6. Tài chính, ngân hàng

       6.1 Hoạt động tài chính

       Kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2022 vượt dự toán Trung ương và HĐND tỉnh giao điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp Hà Tĩnh đã thích nghi với trạng thái bình thường mới, duy trì sản xuất, kinh doanh ổn định trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát. Trong bối cảnh thực hiện nhiều chính sách phục hồi kinh tế như miễn, giảm, giãn các khoản thuế, phí để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, Hà Tĩnh đang làm tốt nhiệm vụ thu ngân sách và cân đối, phát triển nền kinh tế. Chi ngân sách Nhà nước trong năm cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương.

       Năm 2022 tổng thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) trên địa bàn tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 14.606 tỷ đồng giảm 5,44% so với năm 2021. Trong đó, thu nội địa đạt 8.028 tỷ đồng tăng 1,28% so với năm 2021, tập trung chủ yếu vào các nguồn thu lớn như từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, thuế ngoài quốc doanh đạt 3.137 tỷ đổng tăng 14,65% so với năm 2021; các khoản thu về nhà đất đạt 2.953 tỉ đổng giảm 3,67%. Năm 2022 các khoản thu từ thuế, phí giảm chủ yếu do áp dụng nhiều chính sách của Trung ương hỗ trợ thuế để phục hồi phát triển kinh tế, một số dự án mới dự kiến đóng góp lớn vào thu ngân sách trong năm nhưng đến nay chưa triển khai đầu tư. Bên cạnh các khoản thu nội địa thì thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 6.335 tỉ đồng giảm 6,38% so với năm trước. Trong đó, thu hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 9.047,58 tỷ đồng, tăng 16,10 % so với năm trước nguyên nhân chủ yếu do giá các mặt hàng nhập khẩu như than, dầu, quặng (chủ yếu phục vụ sản xuất của Formosa) tăng cao đem lại nguồn thu lớn; hoàn thuế giá trị gia tăng đạt 2.713 tỉ đồng tăng 164,45% so với cùng kỳ.

       Trên cơ sở tiến độ thu ngân sách thực tế, với các giải pháp điều hành linh hoạt, hợp lý nên chi ngân sách cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 19.128 tỷ đồng giảm 4,63% so với năm 2021. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 8.565 tỷ đồng, chiếm 44,78% tổng chi, giảm 11,46% so với cùng kỳ năm 2021; chi thường xuyên đạt 10.476 tỷ đồng chiếm 54,77% tăng 1,07% so với năm 2021. Chi đầu tư giảm so với cùng kỳ nguyên nhân công tác giải ngân vốn đầu tư công một số dự án còn chậm; vướng mắc trong thủ tục và trong công tác đền bù GPMB.

       6.2 Hoạt động ngân hàng

       Hoạt động ngân hàng Hà Tĩnh năm 2022 cơ bản ổn định và có bước tăng trưởng. Các TCTD đã bám sát chỉ đạo điều hành của Nhà nước, tập trung mọi nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, các dự án, phương án có hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương năm 2022.

       Ước nguồn vốn huy động đến 31/12/2022 đạt 83.177 tỷ đồng, giảm 4,86% so với cuối năm 2021.Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn ước đạt 11.925 tỷ đồng, chiếm 14,34% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,47% so với cuối năm 2021; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 71.252 tỷ đồng, chiếm 85,66 % tổng nguồn vốn huy động, giảm 6,12%. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 60.236 tỷ đồng, tăng 3,78%; tiền gửi thanh toán ước đạt 22.026 tỷ đồng, giảm 23,88% so với thời điểm cuối năm 2021. Nguồn vốn huy động giảm so với cuối năm 2021 nguyên nhân chủ yếu do nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm mạnh với mức giảm 25,9% so với cuối năm 2021. Tình hình dịch Covid-19 trong tỉnh và cả nước đã được kiểm soát và các chính sách nhằm phục hồi, phát triển kinh tế của Chính phủ được triển khai đã thúc đẩy các doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.

       Dư nợ cho vay ước đến ngày 31/12/2022 đạt 89.105 tỷ đồng, tăng 24,14% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 60.854 tỷ đồng (chiếm 68,29% tổng dư nợ), tăng 24,73%; dư nợ trung dài hạn đạt 28.251 tỷ đồng (chiếm 31,71% tổng dư nợ) tăng 22,90%. Dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên đạt 37.043 tỷ đồng, tăng 19,51% so với cuối năm 2021. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 21,57% so với cuối năm 2021, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 73,84%, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,84%. Sự phục hồi của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tác động mạnh vào hoạt động xuất khẩu của cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các DN xuất khẩu phục hồi và duy trì chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao của các thị trường xuất khẩu lớn trong thời gian tới là một trong những giải pháp quan trọng giúp phát triển kinh tế Hà Tĩnh.

       Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,9-6% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-7,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 6,2-9,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn phổ biến 5,5-11%/năm, trung dài hạn phổ biến 10,5-13,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 2-4,5%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 5,5-5,6%/năm Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Tính đến 31/12/2022 nợ xấu ước tính 665 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ. Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức thấp nằm trong giới hạn cho phép.

       7. Đầu tư và xây dựng

       7.1 Vốn đầu tư phát triển

       Năm 2022, nhờ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường quyết toán dự án đầu tư, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng. Do đó tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở 3 khu vực đều tăng cao, tăng 47,74% so với năm 2021.

       Với việc đang tập trung cao trong triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm trên địa bàn. Vì vậy, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 40.355,1 tỷ đồng, tăng 47,74% so với năm 2021. Trong đó, được phân theo các khu vực như sau:

       Khu vực nhà nước ước đạt 9.314,7 tỷ đồng, tăng 15,86% so với năm 2021. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước 8.264 tỷ đồng (gồm giải ngân đầu tư công, giải phóng mặt bằng dự án Đường cao tốc Bắc Nam); vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước 157 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện nay Hà Tĩnh có 04 dự án được hỗ trợ 810 tỷ đồng từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đến nay đều đã được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư đảm bảo tiến độ, hiện các đơn vị, địa phương đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đầu tư theo quy định.

       Khu vực ngoài nhà nước ước đạt 21.364,5 tỷ đồng, tăng 19,37% so với năm 2021. Trong đó: Vốn của dân cư đạt 12.745,2 tỷ đồng; vốn của doanh nghiệp đạt 8.619,3 tỷ đồng (dự án Pin VINES 3.694 tỷ đồng, Khu dân cư tổ 6,7 phường Đậu Liêu 220 tỷ đồng, Nhà máy bia Hà Nội Nghệ Tĩnh 50 tỷ đồng...).

       Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 9.675,9 tỷ đồng, tăng gấp 7 lần so với năm 2021. Nguồn vốn khu vực này tăng chủ yếu do dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2, trong năm dự ước vốn thực hiện đạt trên 8.600 tỷ đồng.

       7.2 Hoạt động Xây dựng

       Năm 2022, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự huy động mọi nguồn lực của các đơn vị thi công, cùng với đó là chính quyền địa phương các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc, thực hiện nhanh công tác bàn giao mặt bằng phục vụ triển khai các dự án trên địa bàn, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình xây dựng. Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều khởi sắc, giá trị tăng thêm ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2022 ước đạt 4.688 tỉ đồng, tăng 24,88% so với cùng kỳ năm 2021; đây là năm ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong vòng 5 năm, kể từ khi nhà máy Gang thép Formosa cơ bản hoàn thành xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất.

       Hiện tại, Hà Tĩnh đang tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

       8. Xuất nhập khẩu hàng hóa

       Hoạt động xuất nhập khẩu Hà Tĩnh năm 2022 gặp khá nhiều khó khăn, thách thức do sự bất ổn của tình hình thế giới, nhất là trong xuất khẩu mặt hàng giữ tỷ trọng lớn thép và phôi thép. Tuy nhiên, nhờ sự linh hoạt trong việc ứng phó khó khăn,cũng là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh khác như dệt, may mặc, chè, thủy sản....Nhưng việc giá trị của các mặt hàng này có khá nhỏ nên dù tăng mạnh cũng không kéo lại tăng trưởng Xuất khẩu chung. Năm 2022 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tỉnh ước đạt 5.200,64 triệu USD giảm 1,87% so với cùng kỳ.

       - Kim ngạch xuất khẩu: Năm 2022 ước đạt 1.800,2 triệu USD, giảm 9,99% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài mặt hàng thép, phôi thép ước đạt 1.559,13 triệu USD giảm 13,38% so với năm 2021 còn có các nhóm hàng khác giảm như thủy sản giảm 15,92%; xơ, sợi dệt các loại giảm 27,45%. Có 3 nhóm hàng tăng mạnh và nâng dần tỷ trọng xuất khẩu như: Hàng dệt và may mặc đạt 27,49 triệu USD tăng 113,1% so với năm 2021; dăm gỗ đạt 75,44 triệu USD tăng 54,91% so với năm 2021; chè đạt 0,3 triệu USD tăng 25,0% so với năm 2021. Điểm sáng xuất khẩu năm 2022 là mặt hàng dệt và may mặc có sự tăng trưởng tốt là nhờ tình hình dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát nên việc cung ứng nguyên liệu, khâu vận chuyển hàng đảm bảo thông suốt và đơn hàng từ thị trường các nước đối tác thương mại ổn định hơn năm trước. Tính riêng xuất khẩu từ Formosa ước đạt 1.626,47 triệu USD (chiếm 90,35% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh) giảm 12,6% so với năm 2021.

       - Kim ngạch nhập khẩu: Năm 2022 ước đạt 3.400,44 triệu USD, tăng 3,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 2.927,66 triệu USD (Chiếm 86,1%) tăng 6,04%.

       Mặc dù hoạt động xuất khẩu chủ yếu là hoạt động của Formosa, nhưng việc giảm dần tỷ trọng đóng góp (Xuất khẩu giảm 2,7 điểm phần trăm) đánh dấu sự chuyển biến trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh nhà. Để kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số tăng trưởng cao nhất, cơ quan chức năng đang tích cực hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghệp khai thác hiệu quả các lợi thế từ FTA (Hiệp định thương mại tự do); đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường xúc tiến thương mại để gia tăng sản phẩm xuất khẩu và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo đề án đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gắn với phát triển dịch vụ logistics tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021 - 2025…

       9. Chỉ số giá

       Tình giá cả các mặt hàng năm 2022 khá khó nắm bắt, sự lên xuống của giá cả thị trường hàng hóa biến động từng ngày. Nhưng nhìn chung, chỉ số giá tiêu dùng chung năm 2022 cơ bản được kiểm soát, nhất là tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán. Một số nhóm hàng có chỉ số sự bến động tăng mạnh như giao thông, vật liệu xây dựng, đồ uống, hàng may mặc và giải trí... Bên cạnh đó cũng có những nhóm hàng có chỉ số giảm như hàng ăn và dịch vụ ăn uống, bưu chính viễn thông.

       Tháng 12 năm 2022, chỉ số giá CPI chung giảm nhẹ 0,1% so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ vẫn ở mức tăng 3,2%%. Trong đó, nhóm giao thông đã có dấu hiệu hạ nhiệt khi giảm 2,2% so với tháng trước và tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ. Do việc giá xăng, dầu bình quân giảm dần qua các lần điều chỉnh trong tháng do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tại đợt điều chỉnh ngày 21/12 vừa qua, giá xăng E5 RON 92 giảm 370 đồng/lít, còn 19.970 đồng/lít; xăng RON 95 giảm 500 đồng/lít, còn 20.700 đồng/lít. Trong khi đó, giá dầu hỏa giảm 70 đồng/lít xuống còn 21.830 đồng/lít, dầu diesel giảm 70 đồng/lít còn 21.600 đồng/lít, dầu mazut giảm 150 đồng/kg xuống 12.860 đồng/kg. Như vậy, giá xăng đã có lần giảm thứ 4 liên tiếp trong thời gian qua. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giá cả vẫn đang tăng nhẹ 0,87% so với tháng trước và so với cùng kỳ đã giữ mức tăng 5,18%, do việc mặt hàng chăn, ga, gối đệm, bàn là điện, bình nước nóng và đồ nội thất tăng giá theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu các vật dụng trang trí nhà ở trong dịp lễ Giáng sinh cũng góp phần làm chỉ số nhóm giá này tăng.

       Tính chung cả năm 2022, chỉ số giá CPI tăng 2,2% so với năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,95%; nông thôn tăng 2,3% so với năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng thì chỉ có 2 nhóm hàng có chỉ số giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm không đáng kể 0,07% so với năm 2021. Xét trong nhóm hàng lương thực, thực phẩm mặc dù giảm rất ít nhưng đây là nhóm hàng thiết yếu lại bao gồm rất nhiều loại hàng hóa và có nhiều biến động. Cụ thể giá gạo và thịt các loại giảm so với năm trước do nguồn cung đã cơ bản ổn định, nhưng nhóm rau củ thì biến động rất thất thường, có lúc ở mức rất cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng, cụ thể có một số nhóm hàng tăng cao như: nhóm giao thông tăng 9,62%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,05%, văn hóa giải trí du lịch tăng 2,9%.; đồ uống thuốc lá tăng 2,27%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,92%... Do tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục bất ổn ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, tác động đến nhiều nhóm hàng hóa như xăng, dầu, khí đốt, vàng, sắt thép, đồ dùng công nghệ cao. Nền kinh tế khó khăn trên phạm vi toàn cầu, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng đã dẫn tới hoạt động sản xuất trong nước gặp bất lợi.

       Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, thu nhập của người dân tăng hơn năm trước, kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mức tăng tập trung ở các tháng đầu năm, chịu ảnh hưởng bởi nhóm nhiên liệu xăng, dầu các loại tăng mạnh. Nguyên nhân chủ yếu do những bất ổn về kinh tế, chính trị trên thế giới đã tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước. Năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 1,43% so với năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,12% so với năm trước.

       Dự kiến CPI tháng 01/2023 dự kiến tăng mạnh, mức tăng tăng dần từ thời điểm cuối tháng 12/2022 và giữ hết tháng 1/2023, khi thời điểm dịp Tết Nguyên đán đến gần. Mức tăng chủ yếu tập trung các nhóm lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, hàng may mặc, nội thất gia đình, cước vận tải hành khách, vật phẩm trang trí nhà ở, điện và khí đốt. Để bảo đảm nguồn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán, các siêu thị lớn, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đang có sự chuẩn bị về nguồn hàng cũng như đưa ra nhiều chương trình kích cầu…Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt để phục vụ đời sống cũng như sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá để bình ổn thị trường.

       II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

       1. Dân số, lao động và việc làm

       Năm 2022, tình hình dịch bệnh covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động ổn định trở lại, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp ở Hà Tĩnh tăng cao, đặc biệt tập trung một số nhóm ngành may mặc, điện, cơ khí và dịch vụ kinh doanh… vỳ vậy tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc hơn so với năm trước.

       Dân số trung bình năm 2022 ước tính 1.319.181 người, tăng 0,39 % so với năm 2021 (tăng 5.125 người). Trong đó, dân số thành thị 294.156 người, chiếm 22,3%; dân số nông thôn 1.025.025 người, chiếm 77,7%; dân số nam 654.053 người, chiếm 49,58% và dân số nữ 665.128 người, chiếm 50,42%.

       Ước năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 530.805 người tăng 3,34% so với năm 2021; trong đó lực lượng lao động nam là 280.673 người, chiếm 52,88%; lực lượng lao động nữ là 250.132 người chiếm 47,12% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 123.132 người, chiếm 23,20%; nông thôn là 407.673 người chiếm 76,80%.

        Tính chung năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 505.162 người, chiếm 95,17% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 3,18% so với năm 2021. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị chiếm 23,47%; nông thôn chiếm 76,53%; ở nam giới chiếm 52,73%; nữ giới chiếm 47,27%. Số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 155.170 người, chiếm 30,72% trong tổng số; ngành công nghiệp và xây dựng là 144.686 người, chiếm 28,64%; ngành dịch vụ là 205.306 người, chiếm 40,64%.

        Theo số liệu Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động năm 2022 là 22.995 người, đạt 104,52% kế hoạch năm 2022, tăng 1,89% so với năm 2021. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 7.293 người, chiếm 31,72% trong tổng số, giảm 36,8%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 4.185 người, chiếm 18,2%, giảm 23,1%; xuất khẩu lao động 11.517 người, chiếm 50,08%, tăng 106,14%.

       Ước năm 2022, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 25.643 người, chiếm 4,83% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 0,15 điểm phần trăm so với năm trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp năm 2022 ước tính là 5,1%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với năm trước.

       2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

       Đời sống dân cư: Sau thời gian dài gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã hoạt động bình thường và dần đi vào ổn định. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; thu hút các dự án đầu tư mới góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người dân, nhìn chung đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 45,08 triệu đồng/năm tăng 26,03% so với năm 2021.

       Công tác giảm nghèo: Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Theo kết quả rà soát, hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022, toàn tỉnh còn 14.527 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,79% (giảm 3.321 hộ nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 0,89% tỷ lệ hộ nghèo); tổng số hộ cận nghèo 15.486 hộ, chiếm tỷ lệ 4,04% (giảm 3.934 hộ cận nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 1,05% tỷ lệ hộ cận nghèo).

       Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Năm 2022 toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 502.448 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 158,361 tỷ đồng. Cụ thể: Tặng quà cho người có công khoảng 304.599 suất quà trị giá 83,498 tỷ đồng; Tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 50.576 suất quà trị giá 25,376 tỷ đồng; Tặng quà cho người cao tuổi khoảng 37.207 suất quà trị giá 10,656 tỷ đồng; Tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 66.500 suất quà trị giá 19,4 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 43.566 suất quà trị giá 19,431 tỷ đồng. Trao tặng 96 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 589 triệu đồng cho người có công. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 742 nhà kinh phí khoảng 50.895 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 80 nhà kinh phí khoảng 1.342 triệu đồng. Cấp khoảng 22.429 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 42.726 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 151.994 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 49.037 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công.

       Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-Ttg ngày 28/03/2022 của Chính Phủ về “Quy định việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động”; Kế hoạch số 164/KH-UBND ngày 11/5/2022 của UBND tỉnh về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đến nay Hà Tĩnh đã hoàn thành việc chi trả hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Tổng số lao động được hỗ trợ 1.314 lao động với kinh phí hỗ trợ 1.999,5 triệu đồng, được chia làm 4 đợt. Đợt 1 là 301 lao động, kinh phí hỗ trợ 459 triệu đồng; đợt 2 là 375 lao động, kinh phí hỗ trợ 580 triệu đồng; đợt 3 là 169 lao động, kinh phí hỗ trợ 258 triệu đồng; đợt 4 là 465 lao động, kinh phí hỗ trợ 698,5 triệu đồng.

       Nhìn chung, công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo.

       3. Giáo dục, đào tạo

       Giáo dục phổ thông: Trong tháng đã diễn ra kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2022 - 2023 vào ngày 13/12 với tổng số 913 thí sinh tham gia ở 10 bộ môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin, Văn, Sử, Địa, Anh, Pháp. Kết quả toàn tỉnh có 562 thí sinh đạt giải, trong đó có 57 giải nhất, 158 giải nhì, 198 giải ba và 149 giải khuyến khích. Ngoài số thí sinh tham gia dự thi đạt giải, năm nay, toàn tỉnh còn có 91 thí sinh được đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh môn tiếng Anh theo Quyết định số 1472/QĐ-SGDĐT về việc đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh năm học 2022 - 2023 của Sở GD&ĐT.

       Trên cơ sở những kết quả đạt được của năm học trước, năm học mới 2022-2023 ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, toàn tỉnh có 668 trường, trong đó có 527 trường đạt chuẩn quốc gia (gồm 255 trường mầm non (tăng 186 trường so với năm học trước), 221 trường tiểu học (không đổi), 147 trường THCS (không đổi), 45 trường THPT (không đổi)); với 10.783 lớp (mẩu giáo 2917 lớp (tăng 49 lớp); tiểu học 4250 lớp (tăng 82 lớp); THCS 2.427 lớp (tăng 83 lớp); THPT 1.189 lớp (giảm 3 lớp); 18.778 giáo viên (mầm non 5.621 người (giảm 73 giáo viên); tiểu học 5.605 người (tăng 232 giáo viên); THCS 4.799 người (tăng 361 giáo viên); THPT 2.753 người (tăng 29 người) và 335.175 học sinh (mầm non 74.416 học sinh (giảm 3.182 học sinh); tiểu học 136.500 học sinh (tăng 5886 học sinh); THCS 82.423 học sinh (tăng 4.609 học sinh); THPT 41.836 học sinh (tăng 3715 học sinh).

       Giáo dục đào tạo: Năm 2022 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 19.671 người. Trong đó: trình độ cao đẳng nghề khoảng 662 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 4.190 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 14.819 người. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng công tác giới thiệu, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở thêm các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, có định hướng, khảo sát tiềm năng và tính bền vững của nghề đào tạo.

       4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

       Tình hình dịch Covid 19: Mặc dù tình hình dịch bệnh hiện nay đang được kiểm soát, nhưng virus liên tục biến đổi với các biến chủng mới; tiềm ẩn khả năng lây lan nhanh. Vì vậy, Hà Tĩnh tiếp tục rà soát những người trên 12 tuổi đủ điều kiện nhưng chưa tiêm vắc xin và trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để triển khai tiêm vắc xin đạt tỷ lệ và hiệu quả cao nhất; tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao tỷ lệ tiêm vắc xin mũi nhắc lại theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và tiếp tục thực hiện cập nhật, “làm sạch” dữ liệu tiêm chủng COVID-19 theo Văn bản số 4891/UBND-VX1 ngày 31/8/2022 của UBND tỉnh.

       Tổng số ca mắc từ ngày 01/01/2022 đến ngày 21/12/2022 là 57.216 ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến nay 58.175 ca mắc. Toàn tỉnh đã có 13/13 địa phương thực hiện việc cách ly, điều trị các ca bệnh tại nhà với 50.326 ca, trong đó đã có 50.053 ca khỏi bệnh.

       Tình hình điều trị các ca bệnh: Chuyển các Bệnh viện tuyến trên 128 BN. Điều trị khỏi 57.837 BN, trong đó có 124 BN tuyến trên, 57.713 BN tại Hà Tĩnh, 54 BN tử vong.

       Tình hình dịch bệnh khác: Trong tháng, trên địa bàn có một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 142 ca sốt xuất huyết, 21 ca mắc bệnh quai bị, 33 ca mắc lỵ trực trùng; 39 ca mắc lỵ a míp; 19ca mắc bệnh thủy đậu; 1.699 ca mắc bệnh cúm, tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch, và không có người chết do các bệnh trên.

       Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 988 ca sốt xuất huyết (gồm 23 ổ dịch với 299 ca mắc và 689 ca đơn lẻ). Ngoài ra, năm 2022 còn có các ca bệnh đơn lẻ như sau: 3 ca mắc sốt rét (tăng 200,0%), 129 ca mắc bệnh quai bị (tăng 230,77%), 228 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 71,43%); 261 ca mắc lỵ a míp (giảm 9,06%); 184 ca mắc bệnh thủy đậu (giảm 74,55%); 14.951 ca mắc bệnh cúm (giảm 7,92%), tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch và không có ca bệnh nào bị tử vong vì các bệnh nói trên.

       Công tác phòng chống HIV/AIDS: Năm 2022, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh (Ban Chỉ đạo 138 tỉnh) đã ban hành Kế hoạch số 3817/KH-BCĐ ngày 15/11/2022 về Triển khai Tháng hành động Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2022 (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 10/12/2022) với chủ đề “Chấm dứt dịch AIDS - Thanh niên sẵn sàng!”.

       Trong tháng, có 3 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển thành AIDS và không có người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 người nhiễm mới HIV, giảm 2 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không đổi.

       Năm 2022 có 28 người nhiễm mới HIV, 13 người chuyển thành AIDS và 3 người chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 27 người nhiễm mới HIV(giảm 49,09%), giảm 37 người chuyển thành AIDS (giảm 74,0%), tăng 1 người chết vì AIDS (tăng 50%).

       Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm về ATVSTP trên địa bàn tĩnh được tiến hành thường xuyên và có hiệu quả đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định về ATVSTP của người sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm.

       Năm 2022 toàn tỉnh tổ chức thành lập 548 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành đã tiến hành kiểm tra 11.464 lượt cơ sở; phát hiện 1.041 lượt cơ sở có vi phạm về an toàn thực phẩm; xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 734 lượt cơ sở (70,5% số cơ sở vi phạm) với số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; tịch thu tiêu hủy nhiều hàng hóa vi phạm có giá trị cao.

       Trong tháng, không xảy ra vụ ngộ độc tập thể, chỉ có 73 ca ngộ độc đơn lẻ. So với cùng kỳ năm trước số vụ ngộ độc tập thể không đổi, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 99 ca (giảm 57,56%), số ca tử vong không thay đổi.

       Tính chung năm 2022 có 1 vụ ngộ độc tập thể làm 4 người bị ngộ độc, xảy ra tại một nhà hàng thuộc xã Cẩm Vĩnh, huyện Cẩm Xuyên; ngoài ra có 887 ca bị ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc; so với cùng kỳ năm trước giảm 2 vụ (giảm 66,67%) ngộ độc tập thể, giảm 49 ca (giảm 92,45%) ngộ độc tập thể, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 357 ca (giảm 28,75%), số ca tử vong không đổi.

       5. Hoạt động văn hóa - thể thao

       Hoạt động văn hóa: Trong tháng đã diễn ra một số hoạt động văn hóa sôi nổi như: ngày 27/11, đã diễn ra liên hoan các CLB dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của huyện Hương Sơn đâylà dịp để trao đổi, học hỏi, giữ gìn và lan toả các làn điệu dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh; ngày 12/12 Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức lễ ra mắt câu lạc bộ dân ca – dân vũ Thành Sen và biểu dương một số nghệ nhân dân gian bảo tồn, phát huy các loại hình văn nghệ dân gian trong giai đoạn 2020-2022... Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động văn hóa sôi nổi hơn so với năm trước.

       Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động văn hóa được Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Tĩnh kiểm tra theo định kỳ, thường xuyên. Năm 2022, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã tổ chức 6 cuộc thanh, kiểm tra. Qua kiểm tra 154 cơ sở kinh doanh, hoạt động dịch vụ thuộc ngành quản lý đã lập biên bản nhắc nhở đối với 65 cơ sở kinh doanh còn hạn chế, thiếu sót; đình chỉ hoạt động 15 phòng hát karaoke; lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành 03 quyết định xử phạt VPHC đối với 03 trường hợp, nộp 17,5 triệu đồng vào ngân sách nhà nước.

       Hoạt động thể thao:

       Thể thao thành tích cao: Trong tháng, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 11 giải thi đấu đạt 39 huy chương các loại (9 HCV, 15 HCB, 15 HCĐ); trong đó 3 giải quốc tế gồm giải vô địch Karate châu Á 2022 (1HCV, 2HCB); giải đua thuyền Châu Á (1 HCV), giải vô địch bắn súng Đông Nam Á (1 HCĐ); 8 giải trong nước đạt 7HCV-13HCB-14HCĐ.

       Tính chung cả năm 2022, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 39 giải đấu, đạt 246 huy chương các loại (92 huy chương vàng, 72 huy chương bạc, 82 huy chương đồng), trong đó 05 giải quốc tế đạt 20 huy chương (9HCV-7HCB-4HCĐ), SEA Games 31 đạt 16 huy chương (6 huy chương vàng, 7 huy chương bạc, 3 huy chương đồng).

       Thể thao quần chúng: Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động thể thao quần chúng có phần sôi động trở lại. Theo báo cáo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến nay tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 38 %; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 27,9 %; cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở là 470 người; số câu lạc bộ thể thao phong trào đạt trên 1.050 câu lạc bộ.

       6. Tai nạn giao thông

       Từ ngày 15/11 - 14/12/2022 xảy ra 16 vụ tai nạn đường bộ, làm chết 12 người, bị thương 7 người, thiệt hại tài sản 250 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ tai nạn, giảm 1 người chết, số người bị thương không đổi, thiệt hại tăng 54 triệu.

       Tính từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/12/2022 toàn tỉnh đã xảy ra 108 vụ tai nạn đường bộ, 1 vụ tai nạn đường sắt làm chết 91 người, bị thương 46 người, thiệt hại tài sản 1.770 triệu đồng. So với với năm trước giảm 7 vụ tai nạn đường bộ (giảm 6,09%), tăng 1 vụ tai nạn đường sắt; giảm 5 người chết (giảm 5,21%), giảm 4 người bị thương (giảm 8%). Nguyên nhân chủ yếu là không làm chủ tốc độ, đi sai phần đường, sử dụng rượu bia quá nồng độ cho phép khi tham gia giao thông.

       7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

       Tình hình cháy, nổ: Tính từ ngày 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 17 vụ cháy, nổ không có người chết và bị thương với tổng giá trị thiệt hại ước tính 102,50 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 16 vụ; số người chết và bị thương không đổi. Tính chung cả năm 2022, xẩy ra 71 vụ cháy, nổ làm 1 người chết và 1 người bị thương, với tổng giá trị thiệt hại ước tính 5.025,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021 tăng 8 vụ cháy, nổ; giảm 2 người bị thương; giảm 1 người chết. Nguyên nhân chủ yếu do chập điện và bất cẩn khi sử dụng lửa.

       Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/11 đến ngày 14/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 97 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 59 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 210,7 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 76 vụ đã phát hiện (tăng 361,90%), tăng 38 vụ đã xử lý (tăng 180,95 %), số tiền xử phạt giảm 1.259,80 triệu đồng (giảm 85,67%).

       Năm 2022 (ngày 15/12/2021 - 14/12/2022) đã phát hiện 973 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 642 vụ, với tổng số tiền xử phạt 2.909,12 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước tăng 809 vụ vi phạm (tăng 493,29%), tăng 519 vụ đã xử lý (tăng 421,95%), tăng số tiền nộp phạt 41,27 triệu đồng (tăng 1,44%). Vi phạm môi trường đã phát hiện trong năm vận chuyển, khai thác cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... gồm 888 vụ (chiếm 91,26%); vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 39 vụ (chiếm 4,01%); xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường 33 vụ (3,39%), thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 12 vụ (chiếm 1,23%). Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí 1 vụ ( chiếm 0,11%).

       8. Thiệt hại thiên tai

       Trong tháng, không xảy ra thiên tai, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ thiên tai, số người bị thương và bị chết không đổi, giảm thiệt hại 92 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra 7 vụ thiên tai, cụ thể là 01 vụ sóng to, gió lớn (ngày 3/4); 2 vụ mưa lớn (ngày 30/4-1/5, ngày 27/9-2/10); 3 vụ sét đánh (ngày 26/5, ngày 14/6 và 21/7 ); 01 vụ lốc xoáy (ngày 14/6) làm chết 4 người, 2 người bị thương, làm hư hỏng 1 chiếc tàu, 582 nhà hư hỏng, thiệt hại 522 ha diện tích lúa, 421 ha diện tích hoa màu, 2.000 con gia cầm bị chết. Ước tính tổng thiệt hại là 42.497 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ thiên tai, tăng 1 người chết, giảm 2 người bị thương, tổng thiệt hại về tài sản giảm 144.783 triệu đồng.

       III. DỰ BÁO, ĐẾ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

       Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề đánh giá giữa kỳ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà sẽ gặp khóa khăn và thách thức do tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, xung đột tại Ukraine có thể còn kéo dài; kinh tế trong nước nước dự báo còn chịu sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh tiếp tục xu hướng tăng; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị trường lao động việc làm dự báo còn gặp nhiều khó khăn; biến đổi khí hậu, dịch bệnh tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng nặng nề hơn.

       Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đề ra. Trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số nội dung chủ yếu sau đây:

       Một là, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn, trọng điểm: Tập trung khắc phục sự cố và vận hành trở lại Tổ máy số 1 tại Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1; tạo mọi điều kiện để Nhà máy Pin VinES đi vào vận hành và sản xuất theo kế hoạch. Tích cực thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép, khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển dịch vụ logictics.

       Hai là, thực hiện đồng bộ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy hiệu quả Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành và các địa phương (DDCI), góp phần nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).

       Ba là, tiếp tục rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, các nhà đầu tư chiến lược như (Vingroup, Sun Group, Ecopark, VSIP, T&T, Quế Lâm...);

       Bốn là, chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất các vụ trong năm; chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

       Năm là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai; giải quyết các xung đột pháp lý về thủ tục giao đất, xác định đơn giá đền bù, thủ tục thanh quyết toán xây dựng cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Trước mắt, ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế./.

BBT


Thêm ý kiến góp ý

 Ý kiến của bạn đã được gửi thành công. Cảm ơn bạn!   Làm mới
Lỗi: Vui lòng thử lại

Thống kê trong ngày

Lượt truy cập:   4.534
Tổng số truy cập:   312.343.234

Sự kiện